Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014
Google soán ngôi Apple trở thành thương hiệu đắt giá nhấ thế giới!
http://m.docbao.vn/tin-tuc/22-05-2014/Top-10-thuong-hieu-dat-gia-nhat-the-gioi-nam-2014/30/238107/
Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014
Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014
Chiếc áo chung không vừa hết cho mọi người
http://m.motthegioi.vn/the-gioi-hoc/dai-hoc-tu-thuc-va-chiec-ao-chung-khong-the-vua-het-moi-nguoi-58816.html
Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014
Quà của bạn
Quà của bạn Trần Cường - TGĐ Quốc Anh, trị bá bịnh, khỏe đủ thứ. Nhưng mà uống hết hộp rồi nghỉ vì hết nguyên liệu, mà nguyên liệu nằm bên Tây Tạng! Hic
Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014
SHOPPER MARKETING
SHOPPER
MARKETING – CẠNH TRANH TẠI ĐIỂM BÁN HÀNG
Chiến
lược shopper marketing (tiếp thị đến người mua hàng) nếu thực hiện đúng, sẽ
giảm bớt gánh nặng cho quảng cáo, bởi có tác động trực tiếp đến thời điểm ra
quyết định của khách hàng.
Không dừng ở điểm bán
Theo các chuyên gia,
shopper marketing dường như rất phù hợp trong thời điểm kinh tế khó khăn và rất
được các nhà bán lẻ ưa chuộng. Shopper không nhất thiết là người tiêu dùng. Họ
gồm nhiều đối tượng khác nhau, mua sắm tại nhiều điểm khác nhau. Họ tìm hiểu và
quyết định mua hàng tại nhà nhưng lại cân nhắc tại điểm bán rồi cuối cùng mới
quyết định mua hàng hay không.
Một người mua hàng
tuỳ mục đích mua sắm nên cũng có những hành vi khác nhau. Có những khách hàng
mỗi tuần đi siêu thị một vài lần nên sẽ mua dự trữ. Nhưng cũng có những người
đi mua cùng gia đình và họ coi việc đi siêu thị cũng như thư giãn, giải trí.
Bên cạnh đó, còn có
nhóm khách hàng mua nhanh tại cửa hàng. Những hoạt động marketing dựa vào sự
thấu hiểu về hành vi của người mua hàng để xây dựng thương hiệu, kết nối với
shopper (người mua hàng) và làm cho người mua quyết định mua hàng.
Bà Phạm Nguyễn Yến
Nhi, chuyên gia của Trung tâm Tư vấn và Đào tạo bán hàng LSA, cho biết,
shoppers thường có 6 xu hướng:
Thứ nhất, mua hàng
dựa vào giá trị sản phẩm, bao gồm chất lượng, giá cả và sự yêu thích thương
hiệu.
Thứ hai, chú ý đến
giá cả khi quyết định mua hàng (giá rẻ, chọn mua sản phẩm có khuyến mãi).
Thứ ba, cần trợ giúp
để chọn sản phẩm phù hợp nhất, nhanh chóng nhất để tiết kiệm thời gian.
Thứ tư, cần giải
pháp nhanh chóng, tiện lợi và cả giải pháp sản phẩm. Thứ năm, lượn lờ trước khi
mua. Và cuối cùng là nhóm khách hàng hướng đến những trải nghiệm mua sắm. Với
nhóm khách hàng này, họ quan tâm đến không gian, dịch vụ, sản phẩm...
Hiện nay, shopper
marketing không những đánh mạnh vào các hoạt động tại điểm bán hàng mà còn tập
trung vào cách bài trí sản phẩm trên kệ sao cho vị trí của nó thích hợp và tạo
được sự thích thú nơi người mua.
Bởi, các nghiên cứu
về marketing gần đây cho thấy, 70% quyết định mua hàng được đưa ra trong cửa
hàng, 68% việc mua sắm trong cửa hàng dựa trên sự thôi thúc, 5% là do sự trung
thành với thương hiệu. Vì vậy, cách trưng bày hàng hóa, hình ảnh, ánh sáng,
video, vật dụng trang trí... giúp khách hàng nhận diện thương hiệu một cách
hiệu quả nhất.
Vùng
miền và xu hướng mua sắm mới
30% người tiêu dùng
không định hình nhãn hiệu khi mua hàng; 20% số người định hình nhãn hàng nhưng
sẵn sàng đổi sang hàng khác. Vì vậy, dù quảng cáo cỡ nào cũng chỉ có thể giành
được 50% thị phần.
Trước thực tế này,
doanh nghiệp phải có chiến lược marketing shopper như thế nào? Theo các chuyên
gia bán hàng, doanh nghiệp phải xác định ai là người đi mua mà đưa ra chiến
lược phù hợp. Ở từng kênh bán lẻ (truyền thống và hiện đại) phải có chiến lược
khác nhau.
Thậm chí, những vùng
miền hay ngành hàng khác nhau cũng xây dựng chiến lược marketing khác nhau. Bà
Nhi cho biết, ở miền Bắc, tâm lý thích sành điệu nên hàng có giá cao luôn được
ưa chuộng. Người mua hàng ở miền Bắc có tính trung thành cao, khi đã chọn
thương hiệu hiệu nào thì "đồng hành" cùng tương hiệu đó.
Ngược
lại, người miền Nam thích thay đổi và quan tâm đến yếu tố giá rẻ nên doanh
nghiệp dễ thâm nhập thị trường nếu có chiến lược quảng bá, tiếp thị, bán hàng
tốt. Ở kênh bán hàng hiện đại cũng thế.
Khách hàng của
Co.opmart rất trung thành với thương hiệu này nên họ thường mua hàng ở những kệ
chính hơn là tìm hàng ở các "đảo khuyến mãi". Trong khi đó, chiến
lược của Big C là "hàng giá rẻ” nên khách hàng của nhà bán lẻ này thường
săn hàng khuyến mãi hơn là tìm hàng ở các kệ chính.
Cũng theo bà Nhi,
hiện nay, có đến 70% người mua thích mua ở kênh truyền thống như chợ, tiệm tạp
hóa. Siêu thị được đại đa số khách hàng xem là nơi thư giãn. Cũng nên chú ý sản
xuất những sản phẩm phù hợp với việc vận chuyển bằng xe gắn máy.
Các doanh nghiệp nhỏ
và vừa của Việt Nam có thể giành chiến thắng tại điểm mua hàng bằng cách phát
huy tối đa cơ hội để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm. Trong đó, việc sản xuất
sản phẩm làm sao để có thể vừa thoả mãn chiến lược cho từng kênh (chợ, cửa
hàng, siêu thị...), vừa không quá nhiều để tiện cho việc quản lý.
Có thể tạo vài thiết
kế, đóng gói khác biệt cho từng kênh, từng khách hàng riêng biệt. Chẳng hạn như
các loại bao bì lớn phù hợp với Metro, trong khi đó, bao bì nhỏ phù hợp với các
siêu thị Big C, Co.opmart, Maximark...
Bên cạnh đó, nhà sản
xuất cũng nên chú ý đến yếu tố dùng thử, yếu tố nghe nhìn, khuyến mãi... đồng
thời với việc chọn vị trí bán hàng, trưng bày phù hợp với việc bán hàng và giảm
giá.
Sơ đồ trưng bày cũng
phải hợp lý, ưu tiên cho sản phẩm bán chạy hoặc sản phẩm chiến lược và sản phẩm
mang lại lợi nhuận nhiều. Về quảng cáo, theo các chuyên gia, nên bám sát kế
hoạch khuyến mãi của từng khách hàng. Có chiến lược khuyến mãi cho từng nhóm
khác nhau, phù hợp với nhu cầu của shopper và phù hợp với định vị sản phẩm bán.
Theo ông Phạm
Trọng Chinh, Trưởng Phòng Đào tạo phát triển khách hàng Công ty Unilever Việt
Nam, để bán được hàng, yếu tố quan trọng nhất vẫn là đội ngũ bán hàng. Cho dù
doanh nghiệp xây dựng chiến lược marketing tốt cỡ nào nhưng đội ngũ bán hàng
không tốt cũng sẽ khó thành công. Làm sao để nhân viên thấy được ưu thế tại
điểm bán hàng.
Theo DNSG
Kích bán hàng bằng shopper marketing?
Trong bối cảnh kinh
tế khó khăn như hiện nay, shopper marketing (tiếp thị người mua hàng) đang là
giải pháp giúp các DN tăng doanh số bán hàng. Để tìm hiểu kỹ hơn về phương thức
tiếp thị này, ĐTTC có cuộc trao đổi với ông Triệu Tôn Phong, sáng lập viên kiêm
Chủ tịch MSV Group, một công ty có gần 20 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh
vực marketing tại Việt Nam.
PHÓNG VIÊN: - Thưa
ông, khái niệm shopper marketing nên được hiểu như thế nào?
Ông TRIỆU TÔN PHONG: - Shopper
marketing là hoạt động truyền thông nhắm đến người đi mua hàng tại điểm bán và
ngoài điểm bán. Đây là sự thay đổi về quan niệm chứ không phải thay đổi về kỹ
thuật truyền thông.
Có một sự ngộ nhận
lớn khi quan niệm rằng người tiêu dùng và người mua sắm là một. Để người tiêu
dùng trở thành người mua, họ phải trải qua vai trò người đi mua sắm và đôi khi
người mua hàng chứ chưa phải người sử dụng. Sẽ là sai lầm nếu nhà quản trị tiếp
thị chỉ cố gắng tìm hiểu mong đợi tiềm ẩn của người tiêu dùng mà bỏ sót mong
đợi của người đi mua hàng.
Vì sao shopper
marketing còn khá lạ lẫm với nhiều DN Việt Nam? Vào năm 2007, khi khủng hoảng
kinh tế bắt đầu nổ ra, DN không bán được hàng. Khi ấy, các nhà chiến lược
marketing trên thế giới, đặc biệt Hoa Kỳ, mới bắt đầu mổ xẻ và nhìn lại vấn đề.
Người ta nhận ra từ trước đến nay có quan niệm sai lầm về tiếp thị khi chỉ tập
trung vào người tiêu dùng, trong khi nhân tố quyết định mua hàng lại đến từ
người đi mua sắm.
Từ đó shopper
marketing bắt đầu được chào đón nhiệt thành. Như vậy, hình thức tiếp thị này
mới trải qua một khoảng thời gian chưa lâu. Trong khi đó, Việt Nam thường đi
sau các nước trên thế giới nên khái niệm này vẫn còn mới mẻ với nhiều DN.
- Vậy theo ông DN
Việt Nam đã “chạm tay” đến shopper marketing?
- Tiếp thị là để
giải quyết mục tiêu bán hàng, nên không quan trọng là tiếp thị truyền thống,
tiếp thị số hay tiếp thị đến người đi mua hàng… Phân tích sâu vào vấn đề này,
chúng ta thấy lâu nay các DN chi nhiều tiền cho các đơn vị bán lẻ, mong họ ưu
ái dành cho một không gian rộng hơn trên quầy kệ.
Chính vì thế, để tự
cứu mình, các DN tự xây dựng đội ngũ sứ giả thương hiệu, tư vấn tiêu dùng,
promotion girls (PG)… để những người này đứng ở siêu thị, tiệm sữa, quán bia…
thuyết phục người đi mua hàng. Điều này phần nào cho thấy DN đã bắt đầu “chạm
tay" vào shopper marketing.
- Theo
ông, DN trong lĩnh vực nào phù hợp với hình thức tiếp thị này? Vấn đề chi phí
cho shopper marketing ra sao?
- Tất cả DN đều có
thể áp dụng shopper marketing, nhưng có một điều là shopper marketing không thể
tách rời, mà nó phải là sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà sản xuất (hay thương hiệu)
và nhà bán lẻ để phục vụ tốt nhất cho người mua hàng.
Nói đến marketing là
nói đến sự sáng tạo không ngừng, đặc biệt shopper marketing sự sáng tạo lại
càng lớn. Hiểu được mong đợi của người đi mua hàng là hết sức quan trọng. Đây
cũng chính là chìa khóa thành công trong bán hàng. Còn vấn đề chi phí, có thể
thấy chi phí dành cho shopper marketing không lớn.
Như tôi đã nói, mô
hình shopper marketing mới xuất hiện gần đây, khoảng chừng năm 2007 - thời kỳ
hậu internet, do vậy khi nói đến shopper marketing không thể không nói đến
digital marketing (tiếp thị số) và nếu khéo kết hợp, chi phí sẽ không cao vì ai
cũng hiểu tiếp thị số là hình thức tiếp thị có chi phí thấp nhất, thậm chí có
những trường hợp chi phí bằng 0.
- Như ông nói, kinh
tế khó khăn giúp shopper marketing được đón nhận nồng nhiệt. Vậy giả sử kinh tế
vẫn phát triển tốt thì khái niệm này có xuất hiện không?
- Shopper marketing
xuất hiện trong thời đại của tiếp thị trực tuyến, con người đang sống trong môi
trường của công nghệ nên dù kinh tế tốt hơn shopper marketing vẫn cứ xuất hiện.
Đây là sự điều chỉnh trong nhận thức của các nhà tiếp thị.
Tất cả các vấn đề cơ
bản của tiếp thị đều không sai, khách hàng mục tiêu, phân khúc tiêu dùng, định
vị… không sai, nhưng những hoạt động truyền thông hiện nay gần như thay đổi khá
nhiều. Trên thế giới, ngân sách dành cho shopper marketing mỗi năm tăng khoảng
21%; có tới 73% nhãn hàng nhận thấy thực hiện shopper marketing là khoản đầu tư
hiệu quả và 86% nhà bán lẻ đồng ý điều này; 55% công ty cho biết sẽ tăng ngân
sách shopper marketing trong 3 năm tới…
Có thể nói tiếp thị
người đi mua hàng là xu hướng mới của tiếp thị. Hãy thay đổi quan điểm tiếp thị
ngay từ bây giờ để mỗi đồng chi phí DN bỏ ra đều phát huy hiệu quả tốt nhất.
- Xin cảm ơn ông.
Theo Đầu tư Tài chính – SGGP
Thứ Bảy, 10 tháng 5, 2014
Thứ Hai, 5 tháng 5, 2014
TRADE MARKETING
TRADE MARKETING – CHIẾN THẮNG TẠI ĐIỂM BÁN
Tuy xuất hiện ở Việt
Nam khá muộn, nhưng đến nay, khái niệm Trade Marketing (Tiếp Thị Thương Mại) đã
trở thành công cụ cạnh tranh hữu hiệu của doanh nghiệp trên mặt trận phân phối
sản phẩm thông qua các đơn vị trung gian. Nếu Brand Marketing nhắm đến khách
hàng mục tiêu qua các phương tiện truyền thông, thì Trade Marketing lại quan
tâm đến người tiêu dùng và người bán hàng tại điểm bán sản phẩm.
Để có cái nhìn sâu
hơn về Trade Marketing, Marketer
Vietnam đã có buổi trò chuyện với ông Tiền Gia Trí - Cựu Giám Đốc Phát
Triển Ngành Hàng - Diageo Vietnam, để tìm hiểu rõ hơn về xu thế của Trade
Marketing hiện nay.
Khái niệm về Trade Marketing
Chào ông Tiền Gia Trí, với hơn 10 năm kinh nghiệm làm Trade Marketing tại
các doanh nghiệp hàng đầu tại Việt Nam như Unilever, Vinamilk, Trung Nguyên,
ông có thể chia sẻ quan điểm của mình về Trade Marketing với các marketers
không ạ?
Marketing đã có từ lâu, tuy nhiên Trade Marketing ra đời sau
xuất phát từ những nhu cầu thực tế trong việc thu hút người tiêu dùng về phía
công ty. Trade Marketing chính là sự giao thoa giữa 3 đối tượng: Customer
(Khách hàng - Người bán lẻ). Shopper (Người mua hàng). Brand (Thương hiệu).
Có 2 khái niệm cơ bản, ngắn gọn và dễ nhớ đó là:
WINNING THE SHOPPERS AT THE POINT OF PURCHASE (Chiến thắng
người mua hàng tại điểm bán – so với đối thủ) hay:
LET THE SHOPPERS EXPERIENCE THE BRAND AT THE POINT OF
PURCHASE. (Hãy để người tiêu dùng trải nghiệm thương hiệu tại điểm bán).
Điều này thể hiện rõ nhất đối với các công ty sản xuất hàng
hóa. Còn đối với các công ty dịch vụ thì chưa rõ ràng. Chính vì sinh sau, đẻ muộn
nên công việc của Trade Marketing ở những doanh nghiệp vừa và nhỏ (doanh số khoảng
400 – 500 tỷ trở xuống) thì họ thường hoặc là marketing hoặc là phòng Phát Triển
Khách Hàng (phòng Kinh Doanh) kiêm nhiệm.
Phòng Trây (Trade) là ai đây?
Quan điểm marketing kiểu “cũ” là khi thương hiệu của công ty
được người tiêu dùng biết đến thông qua truyền thông như báo chí, quảng cáo
tivi, digital, PR v.v. và hàng hóa tôi có bán tại các điểm bán thì người tiêu
dùng (NTD) khắc đến mua.
Tuy nhiên, trên thị trường, chúng ta không phải một mình,
còn “bạn bè” chơi chung nữa.
Chúng ta xem một ví dụ nhỏ: ở nhà chúng ta xem quảng cáo kem
đánh răng Colgate, vậy theo quan điểm marketing Colgate nằm TOP OF MIND (nghĩ đến
ngành hàng là nghĩ đến thương hiệu rồi), Brand awareness rất tốt rồi, nhưng khi
tôi đi đến siêu thị, tôi thấy P/S trà xanh đang khuyến mãi 1 tuýp kem tặng kèm
1 bàn chải mà Colgate không có, bên cạnh đó, P/S trà xanh mới được trưng bày bắt
mắt, dễ thấy, dễ lấy tôi chọn P/S trà xanh khuyến mãi bàn chải về dùng thử. Vậy
trong đầu trước khi tôi đi mua kem đánh răng, tôi đã nghĩ đến Colgate, khi ra về
trong túi của tôi có…P/S trà xanh. Vậy phải chăng còn nhiều yếu tố khác nữa tác
động đến hành vi tiêu dùng của tôi. Chúng ta hãy đào sâu hơn nữa xem nhé.
Vai trò của Trade Marketing trong tổng thể chiến lược
Marketing?
Theo quy trình này chúng ta thấy Marketing sẽ am hiểu rất rõ
người tiêu dùng của mình (target consumer) họ có nhu cầu gì? Chúng ta sản xuất
hàng hóa, rồi truyền thông thông điệp mà mình muốn khách hàng nghĩ về thương hiệu
của chúng ta thông qua những nhu cầu mà mình nhìn theo “trong con mắt” insight
của người tiêu dùng. Nhìn “đường đi” của marketing ta thấy nó đi “trên trời”
nên người ta gọi là Above the line (ATL vì thông điệp đi qua …không trung đến
người tiêu dùng như quảng cáo, báo chí v.v). Đường đi của Trade Marketing là
Below the line (BTL vì tiếp xúc với Nhà Phân Phối, cửa hàng, khách hàng -
customer, người tiêu dùng/người mua hàng – consumer/shopper) nên thực tế hơn,
“xôi thịt” hơn, ít bay trên trời hơn. Mục tiêu cuối cùng là hàng hóa phải đi được
từ Công ty đến khi có mặt (availability) và visibility (có mặt trong cửa hàng
thôi thì chưa đủ, vì nhiều khi bị nhét trong kẹt, mà còn phải trườn cái mặt ra
để người tiêu dùng/người mua hàng lựa chọn).
Đi sâu hơn, chúng ta cần phải xem xét:
1. Dẫn lối Nhà Phân Phối (NPP)
Đối với các công ty lớn, chúng ta ít làm các chương trình vì
họ đã có trade term (tức là ăn hoa hồng theo hợp đồng). Tuy nhiên có một số trường
hợp cần TRADE MARKETING như: kết hợp với phòng Phát Triển Khách Hàng (PTKH –
bây giờ người ta chuộng kêu phòng Kinh Doanh là phòng PTKH vì có một thật là
không bao giờ ở Việt Nam có người dám nói tôi đã bao phủ 100% khách hàng, luôn
có những khách hàng cần chăm sóc, khách hàng phát triển chính là thúc đẩy tăng
doanh số, còn chăm chăm theo doanh số thì chúng ta có khuynh hướng bán sĩ để đạt
nhanh mục tiêu trong khi doanh nghiệp cần một hệ thống phân phối rộng và sâu) để
làm sao phân phối cho hiệu quả. Khi còn làm TRADE MARKETING cho Vinamilk, tôi
được giao làm sao để phát triển việc phân phối mặt hàng kem cho tốt hơn. Vì vốn
dĩ kem trong Vinamilk được làm theo công nghệ “kem gió” nên xốp, dễ tan chảy,
bù lại ăn ngon hơn.
Công ty chưa ưu tiên đầu tư ngành này, hãy sử dụng cái đang
có nghĩa là không thể …đề nghị đổi công nghệ kem. Vậy là tôi phải đi nghiên cứu
“bạn bè” làm sao. Từ tủ đông lớn để chứa kem, đến các đá “sạc”đông lại làm bằng
nito có thể sạc để giữ lạnh phòng khi …cúp điện. Từ đó, tôi đề xuất mua tủ
đông, và thùng chở kem chuyên dụng để khắc phục điểm yếu kem mau tan chảy do
công nghệ. Kết quả là có hai nhà phân phối chuyên kem của Vinamilk ra đời kết hợp
với một số ngành hàng cần bảo quản lạnh khác như sữa thanh trùng. Theo chức
năng, Trade Marketing được cấp ngân sách để làm chuyện này, phòng PTKH không có
ngân sách và phòng marketing chỉ lo về consumer.
Đối với công ty nhỏ, đôi lúc cũng khuyến mại cho NPP để họ
ôm hàng, chạy doanh số cuối năm. Điều này vẫn hay xảy ra khi một số Giám Đốc
PTKH tư duy theo…nhiệm kỳ, năm nay ăn chắc năm nay, chắc gì năm sau mình còn
làm.
2. Cửa hàng quý như vàng
Hàng hóa đi dến cửa hàng (CH) cần phải có anh em Nhân Viên
Bán Hàng (NVBH). Đối với những công ty có nhiều mặt hàng mà chỉ có một NVBH bán
thì các ngành hàng trong công ty lại cạnh tranh với nhau. Đôi lúc TRADE
MARKETING cần có định hướng rõ, tháng này cần tập trung mặt hàng nào, do doanh
số xuống, hay đối thủ, hay …cận date. Đính kèm đó là các incentive (thưởng tiền)
để kích thích, tránh hô hào suôn.
TRADE MARKETING có trách nhiệm tạo ra những chương trình để
kích thích CH mua vào/bán ra. Chương trình tuy nhiều nhưng cơ bản có hai phần
chính: Chương trình dài hạn (thường là ký kết theo năm) và chương chiến thuật
ngắn hạn (thường diễn ra trong 2 hoặc 3 tuần)
3. Dài hạn (strategic scheme) trong tình bạn
Trưng bày và doanh số. Điều này tùy thuộc vào chiến lược
marketing của công ty. Có những sản phẩm mới, chỉ cần trưng bày cho người tiêu
dùng quen mặt hàng, chưa vội áp doanh số. Còn nếu mặt hàng đó đã bán chạy thì
ngoài việc trả thưởng trưng bày còn kèm theo doanh số tính theo tháng, quý thậm
chí là tích lũy theo năm. Có khi trả thưởng trưng bày riêng, đạt doanh số riêng
được cái nào “xào” cái đó. Tuy vậy, có cửa hàng sẽ lợi dụng, chỉ mua đủ suất
trưng bày cho có tụ, hàng tháng lãnh phần thưởng trưng bày không màn đến chuyện
mua hàng thêm trong tháng để bán, hoặc mua hàng “trôi nổi” bán mà không mua
hàng phân phối theo NPP được chỉ định trong khu vực. Để giải quyết vấn đề này,
thưởng trưng bày kèm theo doanh số cũng là một giải pháp để tránh “lũ” tràn về
do các kênh khác bán phá vùng qua.
Trưng bày và doanh số được thực hiện tốt có nhiều cái lợi:
Kích thích mới nhúc nhích: nếu NTD khi đi vào cửa hàng,
không gọi đích danh một sản phẩm cụ thể thì chủ CH có khuynh hướng bán sản phẩm
nào có …lời nhiều. Hiện tại do trình độ hiểu biết của NTD chưa cao, nên sự tư vấn
thuyết phục của chủ CH vẫn còn đóng vai trò rất quan trọng trong quyết định mua
hàng của NTD. Vả lại, thị trường kênh GT (kênh truyền thống là CH, chợ) vẫn chiếm
hơn 75% tùy ngành hàng. Có những tập đoàn lớn, doanh số thông qua những cửa
hàng có tham gia chương trình với công ty theo kiểu này chiếm đến 60%-70% doanh
số của kênh. Sẵn có hàng để bán, nhiều khi hết hàng tồn kho không hay, lấy hàng
trưng bày đem bán.
Đối với một số sản phẩm, cần phải có tủ kính, tủ meca, kệ nhỏ,
vĩ treo để trưng bày tại cửa hàng hay ở siêu thị, tùy vào khách hàng của mình
mà làm các cái đầu kệ cho phù hợp. Có công ty gọi riêng phần này là Customer
Marketing. Hiểu nôm na, mình phải làm cho các dụng cụ trưng bày của mình phù hợp
với từng Customer, và ngành hàng của mình phù hợp với chiến lược phát triển của
khách hàng đó. Đặc biệt đối với các khách hàng lớn dạng chuỗi như Metro, Big C,
Lotte hay các khách hàng trong nước như Saigon Coop, Citimart v.v điều này có lợi
cho họ, có lợi cho NTD và có lợi cho ngành hàng của công ty. Lợi ích sẽ kích
thích CH bán hàng ra.
Giúp chọn cho nhanh gọn: thông qua một số kỹ thuật trưng bày
như ngang tầm mắt (eye level), ngang tầm tay với (hand level), theo hình khối,
theo màu sắc, theo giá trị sản phẩm, theo kích cỡ v.v. Một số dụng cụ như shelf
talker (dụng cụ quảng cáo dán trên quầy kệ), wobbler, vĩ trưng bày v.v. Tất cả
điều này giúp cho người tiêu dùng lựa chọn cái mình muốn dễ dàng.
Người mua chính là…vua: thông qua việc trưng bày (nhất là
trong siêu thị và cửa hàng tự chọn, người tiêu dùng có thời gian tương tác tại
quầy kệ nhiều hơn). Trưng bày kèm theo hướng dẫn cách sử dụng, nhất là đối với
ngành hàng mới, sẽ là tác nhân kích thích tiêu dùng nhiều hơn. Ví dụ: NTD Việt
Nam thật sự cũng chưa có kiến thức tiêu dùng về ngành rượu nhiều. Rượu nào pha
với cái gì để ra những loại cocktail ngon. Sản phẩm nào thì tặng cho ai cho phù
hợp, Sản phẩm nào cần uống với gì, khi uống rượu nào thì nên ăn với thực phẩm
gì, uống vào dịp nào? Điều này đặc biệt ý nghĩa với loại sản phẩm bị cấm quảng
cáo như rượu.
Hàng mới làm cho tới: đối với những tập đoàn lớn, trong
chương trình trưng bày, thường để một góc nhỏ trong Hướng dẫn trung bày
(planogram) cho những sản phẩm mới. Với sự ràng buộc này, việc đưa một sản phẩm
mới được hiện diện tại cửa hàng là điều dễ dàng. Phải làm tới nơi tới chốn mới
mong thành công.
Những chương trình dài hạn mang tính chiến lược để gắn kết
tình bạn…hàng trong kinh doanh là điều không thể thiếu. Đối với một số công ty
đa quốc gia, tình bạn này còn thể hiện trong ký kết “đối tác chiến lược”. Có những
chuyện xảy ra ở Việt Nam mà phải mang…lên vùng để xử lý (Thái Lan hay
Singapore) đối với những chuỗi quốc tế như Big C hay Metro.
4. Chiến thuật (tactical scheme) như chớp giật
Tung/ tái tung thật sung: các chương trình chiến thuật sẽ được
áp dụng để đạt mục tiêu bao phủ nhanh chóng. Để sau đó các bạn marketing còn thực
hiện các chương trình truyền thông cho sản phẩm mới. Sẽ lãng phí ra sao nếu NTD
xem tivi, đọc báo thấy có sản phẩm mới, ra CH mua mà không có, hoặc chưa phân
phối đến. Ấy là sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban. Nhìn khía cạnh khác,
chuyện gì xảy ra nếu phòng PTKH đã bao phủ hàng mà NTD chưa biết hàng đó để
mua, để chừng 10 ngày sau thì hết hạn sử dụng. CH đòi trả hàng lại, và ắt hẳn họ
sẽ cạch không mua hàng nữa. TRADE MARKETING phải là người dung hòa chuyện này.
Đặc biệt khi tung sản phẩm mới hoặc tái tung sản phẩm thì cần phải trang bị cho
anh em kiến thức sản phẩm mới thêm chất gì? công dụng ra sao?, xử lý phản biện
để cho cửa hàng an tâm mua hàng. Vậy TRADE MARKETING phải chịu trách nhiệm và kết
hợp với marketing để thiết kế các tờ saleskit để hỗ trợ sao cho dễ nhớ, dễ hiểu.
Ngoài ra, còn thiết kế các chương trình khuyến mãi cho lần đầu để cửa hàng chắc
chắn mua hàng vào dựa vào sự am hiểu nhu cầu và tạp quán mua hàng. Một đơn hàng
bao nhiêu? Không nên quá nhiều vì CH còn e ngại. Mua xong trưng bày sản phẩm đó
ở đâu trong cửa hàng? Riêng các anh em NVBH có thêm incentive (tiền thưởng cho
việc đạt chỉ tiêu cụ thể như theo doanh số, theo lượng thùng bán được), tùy
theo chương trình mà incentive này có thể có cả anh em Sales Supervisor (Giám
Sát cấp quản lý NVBH) hay ASM (Area Sales Manager cấp quản lý Giám Sát) để cho
chiến dịch bao phủ được thực hiện thành công.
Làm sao chương trình tung thật sung, để đạt được thành công
chung.
Phản ứng để chặn đứng: đây chính là công cụ hữu hiệu nếu
“máy do thám” của chúng ta dò được là đối thủ sắp “ra đòn” một chiến dịch lớn.
Phản ứng ngay như chớp giật để nhằm gây tổn thất, tranh thủ để “chất vô cửa
hàng”, tranh thủ túi tiền của CH cũng là biện pháp ứng phó. Đã từng có 2 chiến
dịch mà tôi từng trải qua, chỉ trong 1 ngày Chủ Nhật, tất cả NVBH chỉ bán một mặt
hàng mà đối thủ ngang mặt sẽ tung vào thứ Hai sau đó.
Thuốc phiện cho con nghiện: chuyện gì cũng có 2 mặt. Bây giờ
anh em NVBH ra thị trường, câu đầu tiên chủ CH sẽ hỏi: “hôm nay có mãi (khuyến
mãi) không?”. Thấy NVBH gảy đầu là biết. Vậy là chỉ mua cầm chừng, đợi có
“mãi”. Nhiều nhãn hàng do sa lầy vào cuộc chiến “mãi” nên cũng phải “trả giá”.
Hết đát nên vớt vát: Đặc biệt với ngành thực phẩm không ca cẩm.
Chắc mẩm là sẽ gặp trường hợp làm 1 tặng… 1. Đây cũng là phương pháp giải quyết
hàng cận date, không thì sẽ được nhận …lương bằng sản phẩm …cận date.
Bao phủ sao cho đủ: Bao phủ một mặt hàng đại trà là một công
việc luôn luôn cần làm. TRADE MARKETING sẽ đỡ vất vã nếu có các công cụ hỗ trợ
từ hệ thống như ERP (SAP) hay Solomon (DMS). Những phần mềm này giúp chúng ta
hiểu chúng ta đang phủ tới đâu, thị trường có bao nhiêu cửa hàng đang kinh
doanh mặt hàng mình đang bán để có những chiến thuật bao phủ cho phù hợp. Việc
bao phủ này sẽ lien tục từ ngày này qua tháng khác vì sự dịch chuyển của thị
trường là rất lớn. Khu dân cư mới luôn mở ra, siêu thị mới luôn mở ra, có cửa
hàng thì đóng cửa.
Cửa hàng còn là một chiến địa (battle field) dành “đất” nên
phải nhanh như chớp giật mới mong thắng được đối thủ.
5. Trải nghiệm trong cửa tiệm
Điều này đặc biệt đúng đối với các sản phẩm công nghệ như
laptop, smartphone. Mỹ phẩm cũng dùng cách thức này. NTD chỉ quyết định mua khi
hiểu hết tính năng, trải nghiệm sản phẩm trên thực tế. Việc trang bị kiến thức,
kỹ năng cho những tư vấn viên PG/PS (promotion girl, promotion staff) tại điểm
bán nằm giải thích, trình bày, dùng thử để thuyết phục NTD ra quyết định cuối
cùng. Khi xem tivi, quảng cáo rất nhiều sản phẩm, rất nhiều đối tượng. Tuy
nhiên, khi họ đến cửa hàng, nghĩa là đâu đó NTD đã dịnh hình được nhu cầu. Việc
này giúp NTD ra quyết định dễ dàng hơn. Thắng tại điểm bán hay trải nghiệm
thương hiệu tại điểm bán là như vậy. Đó là đối ngoại, còn đối nội thì sao?
6. Forecast (dự báo) phải chính xác
Vì là người nắm rõ việc kinh doanh của ngành hàng mình, lên
các kế hoạch dài hạn, ngắn hạn nên hơn ai hết TRADE MARKETING là người nắm rõ
phần dự báo (forecasting) kế hoạch để sản xuất. Một trong những đầu vào của quy
trình dự báo này là các hoạt động ATL của marketing, rồi yếu tố mùa vụ, yếu tố
khách hàng (bao nhiêu cửa hàng, tiềm năng của sản phẩm), tỷ lệ khuyến mãi có
“thơm” không, tình hình đầu tư trang thiết bị bán hàng, sau khuyến mãi thì
doanh số giảm xuống ra sao. Sản xuất dư cũng không xong, vì tồn kho thì sẽ tốn
thêm tiền khuyến mại. Sản xuất thiếu thì sẽ bị đối thủ lấy doanh số. Nên người
làm TRADE MARKETING cần có kỹ năng tiên lượn dựa trên số liệu và phần…cảm tính.
Đặc biệt là việc điều động hàng hóa giữa các miền, thì TRADE MARKETING chính là
người làm trung gian “công tâm”. Hàng thơm lắm người mê, hàng dỡ lắm người chê.
Ông hãy cho biết nhận định về tình hình TRADE MARKETING trong thời kỳ
kinh tế khó khăn tại Việt Nam như thế nào?
Có những quyết định NTD thực hiện ngay tại điểm bán, đến đây
chắc hẳn mọi người cũng đã biết trong việc đầu tư thương hiệu cho mình ở đâu và
hiệu quả ra sao. Nếu chúng ta không có
nhiều ngân sách cho quảng cáo tivi, báo chí thì kênh quảng bá tại điểm bán là
điều thiết yếu. Chúng ta phải đi từ NPP đến Đại Lý, Cửa Hàng thông qua NVBH,
Các nhóm này đều có phần lợi ích để làm động lực để đẩy mạnh việc kinh doanh mặt
hàng công ty đang theo đuổi.
Ông hãy chia sẻ cùng các bạn Marketer về sự khác biệt giữa TRADE
MARKETING tại các công ty Việt Nam và các công ty nước ngoài?
Ở 2 công ty nước ngoài là Unilever và Diageo mà tôi từng
làm, họ đầu tư rất nhiều và bài bản cho phòng TRADE MARKETING. Có một số chức vụ
phái sinh như Customer Marketing, Category Management, Shopper Marketing hay
Channel Development đều là một phần của Trade Marketing. Danh xưng như vậy để
được tập trung hơn. Trong giới hạn bài viết này, tôi không đi sâu vào sẽ làm rối
thêm. Coi như những danh xưng này là TRADE MARKETING…nâng cao.
Còn các công ty trong nước, TRADE MARKETING là nơi khi phòng
PTKH bán không được hàng là ca cẩm để có được những chương trình khuyến mãi.
Trong thời buổi kinh tế khó khăn hiện nay, ông có thể dự báo xu hướng phát triển Trade
marketing tại Việt Nam?
Theo các bạn, như những gì tôi đã trình bày, thì xu hướng TM
ở VN có phát triển trong tương lai không?
Có rất nhiều bạn muốn chọn đi theo con đường vào ngành
Marketing, vậy không biết tố chất cần thiết của một người làm Trade
Marketing là gì nhỉ?
Vai trò là cầu nối để làm cho hàng hóa từ công ty đến tận
tay NTD, nên người làm TM cần có nhiều sự am hiểu và chuyên như:
Cũng có lúc bay bỗng để hiểu được brand của mình, NTD là ai?
Cũng có lúc cần thực tế “xôi thịt” để hiểu các đối tượng là
NPP, CH, Khách hàng mình cần thực tế như thế nào?
Cũng có lúc dung hòa TM là mắt xích không thể thiếu trong
tam giác Marketing – Trade Marketing – Customer Development (phòng PTKH). Nếu
các bạn tinh ý, thì trong Trade Marketing là có…marketing và trade. Vậy đủ hiểu
là cần có sự dung hòa.
Kỹ năng phân tích thị trường. dự báo, đối thủ, bao phủ,
doanh số v.v.
Kỹ năng “thương thảo”: đối tác nội bộ thân cận ngoài phòng
PTKH và MKT ra còn phòng Tài Chính (người giữ tiền), phòng Sản Xuất, để biết
tình hình hàng hóa, điều động, hỗ trợ. Đối tác bên ngoài là NPP, khách hàng
(CH, siêu thị), các agency.
Xin cảm ơn ông!
(Theo Tạp chí Marketer Việt Nam)
Chủ Nhật, 4 tháng 5, 2014
25 nhan vat anh huong nhat TG ve kinh te - tai chinh
http://www.tinhte.vn/threads/cnbc-25-nhan-vat-anh-huong-nhat-toi-kinh-te-va-tai-chinh-steve-jobs-dung-dau-bill-gates-thu-nhi.2295225/?utm_source=dlvr.it&utm_medium=facebook
Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2014
Cha con
Google Account Video Purchases
Tân Phong, Tân Phong
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)