Thứ Tư, 31 tháng 12, 2014
Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2014
Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2014
Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014
SINH VIÊN ĐẠI HỌC VĂN LANG
K17C1 - SINH VIÊN NĂM 4 - MÔN QUAN HỆ CÔNG CHÚNG
K18C1 - SINH VIÊN NĂM 3 - MÔN QUẢNG CÁO & KHUYẾN MÃI
Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014
MÔ HÌNH MARKETING 7P
Mô hình 7P Marketing - từ tầm nhìn
đến thực tiễn quản trị
Dựa vào kinh nghiệm và sự đúc kết
nguyên lý marketing hiện đại, công trình nghiên cứu trong 5 năm (1999-2004)
chuyên gia thương hiệu Võ Văn Quang đã xây dựng một mô hình quản trị
marketing đơn giản nhưng xúc tích và dễ hiểu mà hầu hết các nhà quản trị doanh
nghiệp đều nắm bắt không quá khó khăn, áp dụng linh hoạt trong doanh nghiệp
của mình trong việc xác lập bộ máy, xây dựng chiến lược và tìm ra những đối
sách cạnh tranh hiệu quả toàn diện cho thương hiệu sản phẩm và cho cả doanh
nghiệp.
Cơ sở hình thành Mô hình 7P
Chúng ta gọi thời đại marketing là
giai đoạn bắt đầu từ nửa sau thế kỷ 20 khi mô hình kinh doanh chuyển từ định
hướng sản xuất sang định hướng thị trường và sau này nói chính xác hơn là
định hướng khách hàng (chính xác hơn nữa là khách hàng tiêu dùng). Lộ trình
chuyển đổi tư duy kinh doanh này hình thành một loạt các khái niệm và định
nghĩa mới giúp marketing thực sự trở thành một môn khoa học ứng dụng hiệu
quả.
Trong những thập kỷ gần đây, những doanh nghiệp thành công và bền vững đều là doanh nghiệp định hướng marketing (gọi là marketing oriented company), khác với hai thế lực doanh nghiệp khác là “doanh nghiệp thành công nhờ chính sách nhà nước” và “doanh nghiệp thành công dựa vào nguồn tài nguyên”. Tuy nhiên hẳn quý vị cũng đồng ý với chúng tôi rằng các thế lực này không phải là mục tiêu để chúng ta nghiên cứu, để noi gương hay theo đuổi trong tiến trình phát triển bền vững của các doanh nghiệp.
Quá trình này được đối chiếu về lý
thuyết từ nhận thức của quản trị doanh nghiệp từ mô hình “5 thế lực” của
Michael Porter lấy doanh nghiệp làm chủ thể sang mô hình “4P” lấy “khách
hàng” làm trọng tâm mà Philip Kotler đã đúc kết. Các phép toán vĩ mô càng
ngày càng trở nên rắc rối và khó hiểu theo sự tăng trưởng mức độ phức tạp của
nhu cầu tiêu dùng. Bên cạnh đó là sự chuyển đổi trong nghiên cứu tâm lý từ
quan điểm tâm sinh lý cá nhân (Pavlov và Sigmund Freud) sang Tâm lý Nhân văn
mang tính cộng đồng của Abraham Maslow. Sự hiểu biết của chúng ta về Con
người dưới góc độ tâm lý và nhu cầu mặc dù vẫn còn nhiều bí ẩn nhưng rất
nhiều quy tắc ứng xử mang tính cộng đồng đã được ghi nhận dưới sự phân tích
thống kê. Tuy nhiên Tương lai là một bí ẩn lớn nhất mà càng ngày nhà doanh
nghiệp càng không thể chủ quan. Cả Michael Porter và các học giả Marketing ngày
nay đều có chung quan điểm rằng chiến lược đúng là đi tìm “con đường riêng”
cho mình để đáp ứng nhu cầu đa dạng và luôn bí ẩn của Con người.
Có ít người thừa nhận marketing ở cấp độ triết học. Họ cho rằng Tiếp thị là những trò rẻ tiền và khuyến dụ con người làm những việc mà người ta không mong muốn. Chúng tôi muốn cảnh báo với cộng đồng rằng Marketing là một ngành học thuật đã được nâng tầm triết lý, trong đó Brand Marketing là một đỉnh cao. Bản thân marketing không tự xác lập sứ mệnh cho mình mà Con người là động lực hình thành sứ mệnh của khoa học tiếp thị (hiểu theo nghĩa rộng).
Ngày nay lĩnh vực nào cũng có thể
ứng dụng marketing, miễn là nó xác lập sứ mệnh phục vụ con người và vì sự
phát triển của loài người. Marketing giúp hình thành Sản phẩm hay cách thức
để thỏa mãn Nhu cầu của Con người; không những thế marketing giúp con người
nhận ra những khát vọng (Nhu cầu chưa được thỏa mãn) để thúc đẩy họ vươn lên;
marketing giúp con người nhận rõ bản thân mình với những người xung quanh,
giữa sản phẩm (lợi ích, giá trị) này với sản phẩm (lợi ích, giá trị) khác.
Bởi vậy quý vị hẳn sẽ không ngạc
nhiên khi Al Ries (học giả nghiên cứu marketing nổi tiếng Mỹ, thế hệ tiếp nối
Philip Kotler) so sánh sự tiến bộ của brand & marketing song hành với
thuyết tiến hóa của Darwin trong nhận thức của con người về thế giới vật
chất, mối quan hệ trao đổi giữa các cá thể trong cộng đồng và việc xác
lập vị thế cá nhân trong cộng đồng.
Mô hình 7P:
Mô hình Marketing 7P là một trong
những lý thuyết theo xu hướng nâng cao vị thế của marketing trong quản trị
doanh nghiệp và quản trị tổ chức.
Mô hình Marketing 7P này bao gồm 3
nấc: nấc 1 là “4P” tức 4 yếu tố cơ bản trong quản trị marketing. Đó là nhóm
các giải pháp (hay chiến lược) Sản phẩm, từ ý tưởng cho đến sản xuất ra sản
phẩm, trong đó không quên định nghĩa sản phẩm là một tập hợp các lợi ích;
Nhóm kế tiếp là các giải pháp Giá, từ chi phí cho đến chiết khấu phân phối và
giá tiêu dùng; Kế đến là các giải pháp về phân phối và bán hàng và sau cùng
là các giải pháp Quảng bá thương hiệu sản phẩm (nên nhớ là quảng bá thương
hiệu, trong đó có sản phẩm, chứ không phải quảng bá sản phẩm).
Ở cấp độ 2 (nấc 2), chúng ta quan
tâm đến hai nhóm giải pháp lột tả tinh thần cơ bản của quản trị, đó là yếu tố
Con người (P5) và yếu tố Hệ thống (P6). Ngày càng có nhiều các phương pháp
tiếp thị định hướng con người trong đó có hai mảng quan trọng là tiếp thị
dịch vụ và PR (quan hệ công chúng). Cụ thể trong một doanh nghiệp hàng đầu
thành công với hai nhãn hiệu bia quốc tế nổi tiếng tại Việt Nam, PR được vận
dụng triệt để ngay từ những năm đầu họat động được phân tách bởi PR đối ngoại
và PR đối nội. PR đối ngoại (External PR) nhắm đến việc xây dựng và duy trì
các mối quan hệ và hệ thống chăm sóc khách hàng (CRM) đối với Nhà Phân phối,
giới Báo chí; các Liên đo àn thể thao và các đơn vị sở hữu Truyền thông. PR
đối nội (Internal PR) nhắm đến việc chăm sóc từng cá nhân và gia đình nhân
viên làm việc cho công ty ở mọi cấp bậc công việc. Công ty có những chính
sách đãi ngộ và hiếu hỉ cho từng nhân viên và giá đình tùy theo quá trình
công hiến của họ; những nhân viên làm việc gắn bó với công ty được khen
thưởng theo nấc thâm niên mà họ đã gắn bó với công ty. Đặc biệt Ngày hội Gia
đình hàng năm của toàn thể cán bộ nhân viên công ty được tổ chức hết sức ấn
tượng tạo ra không khí đoàn kết thân mật… tất cả tạo ra niềm kiêu hãnh của
nhân viên và gia đình họ đối với những người xung quanh. Theo hệ thống “7P”
nhóm giải pháp này nằm trong phạm trù P5 (People); và nói theo ngôn ngữ brand
marketing thì mỗi cá nhân và gia đình Nhân viên cũng được “gắn nhãn” với
thương hiệu chung của doanh nghiệp cũng như các thương hiệu sản phẩm mà họ
đang nỗ lực gầy dựng từng ngày ở mọi nơi mọi lúc.
Với yếu tố P6 (quy trình hệ thống,
hay tính chuyên nghiệp, tức process hay professionalism) doanh nghiệp phát
triển luôn đặt những quy trình quản trị (điển hình là ISO9001) làm hệ thống
quản trị làm nến tảng để thể chế hóa bộ máy làm việc, giúp luật hóa trách
nhiệm cá nhân hay nói đúng hơn là “minh bạch hóa” vai trò và phạm vi trách nhiệm
của từng người để cá nhân thấy rõ nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong một
tập thể quản trị. Tuy nhiên sự vận dụng hệ thống quản trị chuẩn mực (theo
ISO) ở một số doanh nghiệp có hàm lượng chất xám va hạm lượng dịch vụ cao hay
mang nhiều tính sáng tạo xem ra không chứng minh được hiệu quả. Marketing 7P
giải thích hiện tượng này bằng một luận điểm rất cơ bản đó là xem tổ chức
doanh nghiệp cũng là một sản phẩm trong đó người lao động thụ hưởng hai nhóm
lợi ích (hay giá trị) là lý tính và cảm tính (rational và emotional). Nếu một
doanh nghiệp có hệ thống quản trị (thể hiện qua sản phẩm đầu cuối mà doanh
nghiệp tạo ra) thiên về lý tính hơn thì khả năng áp dụng các quy trình ISO
(kinh điển) sẽ hiệu quả hơn; ngược lại nếu hệ thống quản trị doanh nghiệp
thiên về sản xuất ra các sản phẩm cảm tính (dịch vụ, văn hóa nghệ thuật,
truyền thông…) thì khả năng áp dụng quy trình quản trị kinh điển cần phải kết
hợp với các biện pháp kích thích sáng tạo và mở rộng các tiêu chí đánh giá
hiệu quả công việc (tức sản phẩm làm ra) một cách linh hoạt hơn thì nhân viên
(người lao động trí tuệ) sẽ không cảm thấy bị gò bó và cảm nhận được đẳp cấp
của nhà quản trị, từ đó mới thu hút họ là việc. Nói cách khác một quy trình
ISO kinh điển liệu có thể quản lý quy trình sáng tạo (sản xuất) ra một tác
phẩm âm nhạc hay không? Đó là một trong những tình huống thử thách điển hình
đối vớ các quy trình chuẩn hóa quản trị theo tư tưởng thuần lý tính mà các mô
hình quản trị marketing ngày nay có thể khắc phục, trong đó “7P” là một điển
hình.
Ở cấp độ 3 (nấc 3), chúng ta tìm
hiểu vai trò của tư tưởng, triết lý, văn hóa trong một tổ chức, hay cụ thể là
trong một doanh nghiệp. Các giải pháp ở cấp độ này thể hiện bởi sứ mệnh hay
tầm nhìn của doanh nghiệp, của thương hiệu; văn hóa, những thói quen ứng xử
và chuẩn giá trị trong doanh nghiệp, cũng như giữa thương hiệu ứng xử trước
cộng đồng; tư tưởng, tầm nhìn và giá trị của tổ chức cũng cần phải được thông
đạt một cách hiệu quả đến với toàn thể cá nhân trực thuộc (stake holder) và
kể cả đối với cộng đồng trong đó dĩ nhiên là có khách hàng, người tiêu dùng,
đối tác, người thân của họ, hay nói rộng hơn là của to àn xã hội.
Trong chiến lược phát triển bền
vững, mô hình 7P càng ngày càng chứng minh hiệu quả của nó.
Phạm vi ứng dụng của Mô hình 7P
Marketing
Mô hình marketing 7P có thể được
ứng dụng trong khá nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên bằng sự cẩn trọng cần
thiết đối với những lý thuyết mới, chúng tôi không mạnh dạn khẳng định mô
hình “7P” có thể đáp ứng tất cả các dạng thức thự tiễn, và trong phạm vi hạn
hẹp của bài viết cũng không thể đặt ra tất cả những điều kiện cần của mô hình
này. Mô hình “7P” chỉ thực sự mang lại hiệu quả đối với doanh nghiệp hoạt
động trong môi trường cạnh tranh lành mạnh không có (hoặc ít có) sự can thiệp
của các cơ chế tạo độc quyền hoặc không lành mạnh (unfair trade).
Một số lĩnh vực mà “7P” có thể đáp
ứng một cách hiệu quả như sau:
(1) Giải pháp Chiến lược Marketing Toàn diện
Một tập hợp giải pháp chiến lược
marketing toàn diện có thể được xem là một bộ giải pháp chìa khóa sử dụng cho
tòan thể chiến lược phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Ở cấp độ này
marketing đóng góp chiến lược cho tất cả các mặt họat động của doanh nghiệp,
và hiếm có một bộ giải pháp nào có thể thay thế hiệu quả. Tuy nhiên việc
lượng hóa toàn bộ hệ thống bảy nhóm giải pháp như đã đề cập trong phần giới
thiệu “7P Marketing” không phải là mục tiêu nội dung đề cập trong bài viết
này, và phần nhiều chúng tôi chưa có tham vọng biến nó thành một bộ công cụ
(toolkit) mẫu có thể nhân rộng và thương mại hóa kiểu như ISO 9001 hay
Balance Scorecard. Dù sao đây chỉ là một bộ giải pháp tòan diện dành riêng
cho các quản trị gia trung cao cấp đi lên từ các vị trí then chốt của doanh
nghiệp, tổng công ty hay tập đoàn. Chúng tôi mạnh dạn khuyến khích sự phối
hợp hiữa tinh thần giải pháp chủ đạo của “7P” với hệ thống chuẩn mực quản trị
phổ biến hiện hành để tối ưu hóa hiệu quả của quản trị, với điều kiện và chỉ
trong điều kiện doanh nghiệp (hay tổ chức) xác định lấy những mục tiêu thị
trường, khách hàng và ngừơi tiêu dùng (hay một cộng đồng cụ thể) làm trọng
tâm.
(2) Cơ sở Lượng hóa Mục tiêu và Gía trị Doanh nghiệp
Chúng tôi mạnh dạn khuyến khích sự
phối hợp giữa tinh thần giải pháp chủ đạo “7P” với hệ thống chuẩn mực quản
trị phổ biến hiện hành để tối ưu hóa hiệu quả của phương pháp, với điều kiện
và chỉ trong điều kiện doanh nghiệp (hay tổ chức) xác định lấy những mục tiêu
thị trường, khách hàng và người tiêu dùng (hay một cộng đồng cụ thể) làm
trọng tâm. Trong đó chúng ta cần lưu ý rằng lượng hóa là một tiêu chí quan
trọng của quản trị hiệu quả và chuyên nghiệp.
Xét về khía cạnh giá trị, khái
niệm P7 (philosophy) chính thức hình thành luận điểm chứng minh một tổ chức
cần có một tinh thần chủ đạo và giá trị gốc để mọi cá nhân nhắm đến. Tổ chức
ở đây hòan toàn có để được định dạng với quy mô từ Gia đình, Doanh nghiệp,
Công đồng Làng xã, Hiệp hội, Tôn giáo cho đến phạm trù Quốc gia và Quốc tế.
(3) Cơ sở Lượng giá Thương hiệu và Đánh giá Doanh nghiệp
Hệ thống “7P Marketing” cũng là cơ
sở vững chắc để các chuyên gia lượng giá thương hiệu (brand valuation) tiến
hành đánh giá marketing (audit) và lượng giá thương hiệu (valuation) một cách
toàn diện. Đây là việc làm hết sức cần thiết trong tiến trình cổ phần hóa
doanh nghiệp hay định giá tài sản thương hiệu nhằm các mục đích chuyển nhượng
hay nhượng quyền. Đối chiếu với hệ thống marketing audit hiện hành (phổ biến
nhất là của William M. Pride), hệ thống “7 yếu tố” ở đây cũng tìm được tiếng
nói chung bởi các định nghĩa và phạm vi đánh giá xét tổng hòa phần nhiều là
giống nhau.
(4) Chuẩn mực hay hình mẫu của một Marketing Plan
Lâu nay chúng ta đề cập rất nhiều
đến kế họach marketing tòan diện, nhưng rất thiếu cơ sở để xác định một hình
mẫu của Kế Hoạch Marketing. Như vậy một kế hoạch marketing đầy đủ là kế hoạch
mà trong đó bao gồm cả “7 nhóm giải pháp” được lượng hóa theo tiêu chí SMART
(*). Nhóm 7 giải pháp bao gồm (1) các giải pháp sản phẩm mới, sản phẩm toàn
diện (lý tính & cảm tính), những điểm độc đáo của sản phẩm và cơ cấu các
sản phẩm; cần lưu ý dưới quan điểm của tiếp thị thương hiệu một sản phẩm được
xem là hoàn chỉnh sẽ được xem là một thương hiệu; (2) hoạch định giá (kể cả
chi phí) chiết khấu kinh doanh hay phân tích những lợi ích kinh tế mà một sản
phẩm (dù nằm bất cứ dạng thưc nào) có thể mang lại cho con người. Chẳng hạn
một chương trình truyền thông xã hội chủ đề “tiết kiệm điện” có thể thuyết
phục cộng đồng bằng sự thông đạt những dữ liệu “mỗi gia đình tiết kiệm một
bóng đèn thì cả nước sẽ tiết kiệm 30 triệu KW điện năng” và dữ liệu này sẽ
giúp người dân thấy rõ lợi ích “kinh tế” của việc thực hiện hành vi trách
nhiệm của mình. (3) hoạch định phân phối cần thiết trong “tất cả” các kế
hoạch marketing thực thi sứ mệnh “mang một sản phẩm, dịch vụ, lợi ích…” đến
với con người (khách hàng, người tiêu dùng, công chúng…). (4) promotion (xin
lưu ý) được hiểu là quảng bá (thương hiệu sản phẩm) chứ không phải là quảng
bá sản phẩm và cũng không phải là khuyến mãi (sales promotion). Quảng bá là
nhiệm vụ trọng tâm của truyền thông tiếp thị, là sứ mệnh mới đầy khó khăn của
marketing trong một môi trường cạnh tranh (trong môi trường độc quyền bạn
không cần quảng bá thương hiệu sản phẩm). Như vậy trong một kế hoạch tiếp thị
đầy đủ không thể thiếu các giải pháp quảng bá. Phần còn lại là các giải pháp
P5 (con người), P6 (quy trình hệ thống) và P7 (triết lý) mà chúng tôi đã đề
cập trong phần giới thiệu “7P” trên đây.
Thay cho lời kết, chúng tôi một
lần nữa muốn nhấn mạnh rằng mô hình “7P” sẽ hữu dụng trong một môi trường
cạnh tranh và lành mạnh. “7P” sẽ rất thuận lợi cho các cá nhân nhà quản trị
hay lãnh đạo doanh nghiệp (kể cả một tổ chức) đã lĩnh hội nguyễn nguyên lý
marketing căn bản. Tuy nhiên đối với những người không phải là “dân
marketing” việc nắm bắt mô hình 7P cũng không phải là quá khó khăn. Chỉ
cần quý vị có một tư quy cởi mở.
VÕ VĂN QUANG (Chuyên gia Thương hiệu)
Ghi chú (*):
SMART là viết tắt 5 tiêu chí đánh
giá tính chuyên nghiệp của một kế hoạch, gồm Specific (cụ thể); Measurable
(đo được); Achievable (khả thi); Related to Strategy (bám sát chiến lược) và
Time-focued (lịch trình cụ thể).
|
Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014
Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014
Quảng cáo sáng tạo
Sinh viên Khoa Thương mại, Đại Học Văn Lang giao lưu với Chuyên gia Sáng tạo Quảng cáo Nguyễn Nam Trung - StormEye.
Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2014
Thứ Bảy, 4 tháng 10, 2014
Chủ Nhật, 28 tháng 9, 2014
Thứ Bảy, 23 tháng 8, 2014
Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014
Giảng viên "trẻ" Nguyễn Tường Huy giao lưu trong hương trình truyền hình trực tiếp "Đất nước trọn niềm vui" trên VTV9
Chương trình trực tiếp: Đất nước trọn niềm vui: http://youtu.be/rNE-H_hexAo
Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2014
Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014
Chủ Nhật, 15 tháng 6, 2014
Xay dung noi dung fanpage facebook
http://www.slideshare.net/digitalmarketingvn/yeu-to-xay-dung-noi-dung-fanpage-facebook-hieu-qua
Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2014
Cambodia 2003
Năm 2003 sang Cambodia nghiên cứu thị trường, người ngồi bên phải là Sotha, nay là Cục trưởng xúc tiến xuất khẩu Cambodia.
ĐÁNH GIÁ VÀ ĐỊNH GIÁ THƯƠNG HIỆU
Bối cảnh kinh tế khó khăn toàn cầu đang có
tác động tổng hợp tới các doanh nghiệp chủ quản thương hiệu. Theo Bloomberg
News, các thương vụ mua bán & sáp nhập (Merger & Acquisition – M&A)
trên toàn thế giới vẫn tiếp tục gia tăng thêm 4% so với năm 2013. Những số liệu
thống kê hoạt động M&A toàn năm 2013 tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, nhưng
theo báo cáo của Capital IQ thì ngay nửa đầu năm 2013, hoạt động M&A đã
tăng 29% so với cùng kỳ năm 2012 – thời điểm ghi nhận tỷ lệ thương vụ M&A
tăng gấp 5 lần so với 5 năm trước đó theo công bố của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Xu
hướng này là mối quan tâm của những doanh nghiệp hoạt động trong ngành thương
hiệu như chúng tôi.
Trước khi tiến hành xây dựng nhận diện
thương hiệu, chúng tôi phải đánh giá tình trạng hiện tại của thương hiệu, hoặc
ý tưởng thương hiệu đối với một thương hiệu mới. Những đánh giá này liên quan
tới việc định giá mà các doanh nghiệp phải tiến hành khi mua bán hoặc sáp nhập.
Các thương hiệu Việt được trả giá như thế nào khi họ trở thành mục tiêu của
thương vụ mua bán? Giá trị của họ được xác định là bao nhiêu cho mục “Tài sản
vô hình” trong bảng Báo cáo Kết quả Kinh doanh? Bởi lẽ lĩnh vực thương hiệu vẫn
còn khá non trẻ tại Việt Nam, dường như những tài sản liên quan đến thương hiệu
của một công ty thương thay đổi trong ngắn hạn.
Hơn một năm qua, chúng tôi bắt đầu suy
nghĩ kỹ lưỡng về việc hỗ trợ các công ty mục tiêu tăng giá trị thương hiệu và
đồng thời giúp trau dồi kiến thức thương hiệu cho ngày càng nhiều doanh nghiệp
Việt tham gia “cuộc chơi” M&A với tư cách người mua. Chúng tôi không chỉ
suy nghĩ về việc sáng tạo nhận diện thương hiệu hiệu quả mà cả cách thức khiến
chúng trở nên hiệu quả trong định giá thương hiệu.
Thông thường, nhiều nhà đầu tư đưa ra
quyết định đầu tư dựa trên các phương pháp đánh giá cơ bản về hoạt động tài
chính như giá trị cổ phiếu và giá trị tài sản trong bảng cân đối kế toán. Những
phương pháp như thế có thể đưa ra con số không chính xác về giá trị doanh
nghiệp và không tính tới những tài sản vô hình không được thống kê như cơ sở
khách hàng, mạng lưới phân phối và đặc biệt là thương hiệu. Do đó, hoạt động
định giá thương hiệu rất cần thiết để xác định giá trị tổng thể của công ty sở
hữu thương hiệu. Có hai đầu vào căn bản đóng góp vào thành công của việc định
giá thương hiệu: tài chính và thông tin liên quan đến thị trường. Tất cả kết
hợp thành một mô hình thu thập và tổng hợp dữ liệu thị trường, khách hàng và
tài chính.
Đối với hình ảnh thương hiệu, phương pháp
định giá lấy thị trường làm trọng tâm tổng hợp thông tin nghiên cứu khách hàng
và phân tích đối thủ cạnh tranh với dự đoán về doanh thu thương hiệu.
Phương pháp này đòi hỏi ở mức tối thiểu đánh giá cảm nhận thị trường về thương
hiệu và đánh giá các công cụ truyền thông được sử dụng để định hình những
cảm nhận đó. Đây là những yếu tố thường được đánh giá dựa vào mức đố phù hợp và
sau đó chuyển hoá thành con số để sử dụng cho định giá thương hiệu tổng thể.
Nói cách khác, định giá thương hiệu hoàn chỉnh đòi hỏi những
thứ nằm ngoài phạm vi phân tích tài chính và tiêu chuẩn định giá – đánh giá thương hiệu.
Trong số những doanh nghiệp cung cấp dịch
vụ định giá thương hiệu hoàn chỉnh, những đơn vị uy tín thường kết hợp các
nguyên tắc cơ bản về kế toán với lợi nhuận tạo ra quy luật về tiếp thị thương
hiệu. Interbrand, có lẽ là cái tên được biết đến nhiều nhất, tạo dựng nền tảng
từ năm 1974 về chiến lược thương hiệu, đặt tên thương hiệu và thiết kế sáng
tạo. Millward Brown, một gã khổng lồ khác trong lĩnh vực định giá thương hiệu,
bắt đầu từ năm 1973 với những nghiên cứu tập trung vào truyền thông tiếp thị.
BEVA, phương pháp định giá thương hiệu cho kế toán, được xây dựng từ năm 2002
với sự hợp tác của công ty quảng cáo BBD&O và công ty kiểm toán Ernst &
Young.
Mặc dù các phương pháp đánh giá hình ảnh
đã được thừa nhận rộng rãi trong giới quản lý tài chính tại doanh nghiệp, vẫn
có quá ít tiêu chuẩn về đánh giá hình ảnh thương hiệu ngoài một số thử nghiệm
nhất định. Năm 2010, Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO) xây dựng các tiêu
chuẩn về định giá thương hiệu tài chính theo Hội đồng Tiêu chuẩn Định giá Quốc
tế (IVSC) và Hội đồng Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế (IASB) có tính đến các khía
cạnh hành vi tiêu dùng của thương hiệu. Tài liệu Định giá Thương hiệu ISO 10668
cố gắng làm cho việc định giá trở nên nhất quán, tuy vậy trong khi xây dựng các
nguyên tắc thì chúng ta chỉ có những chỉ dẫn vĩ mô kiểu “… một phân tích khía
cạnh hành vi của thương hiệu là cần thiết để xác định các thừa số phù hợp” và
những cảnh báo như “Chất lượng và số lượng dữ liệu sức mạnh thương hiệu sẵn có
cho hoạt động định giá có sự khác biệt lớn giữa các thương hiệu khác nhau.”
Nằm giữa những nỗ lực đáng ghi nhận tuy có
phần đơn giản thái quá như của ISO và hoạt động đánh giá tài sản thương hiệu là
vô số những yếu tố cần cân nhắc từ tính cách thương hiệu cảm nhận cho tới mức
độ phù hợp của màu sắc mà thương hiệu có thể sử dụng, từ phân khúc kinh doanh
mà thương hiệu hoạt động cho đến nguồn năng lượng mà nhận diện mang đến cho
thương hiệu, từ chuyện thể hiện mối quan hệ giữa thương hiệu mẹ và thương hiệu
nhánh phù hợp ra sao đến việc các nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ như thế nào. Để
thực sự đánh giá một thương hiệu, chúng ta cần phải xem xét những gì? Và khi
chúng ta đã quyết định được các yếu tố đó, mức độ quan trọng của các yếu tố đó
nên được xác định như thế nào? Và sau khi đã đạt đến mức độ hiểu biết thương
hiệu, bạn có thể lượng hoá chúng như thế nào để định giá tài chính?
Với hơn 40 năm kinh nghiệm giúp các công
ty xây dựng thương hiệu tại Mỹ và 20 năm tại Việt nam, chúng tôi phần nào hiểu
được phải làm gì để tạo dựng và duy trì hình ảnh một thương hiệu mạnh. Thông
qua kinh nghiệm, nhiều kiến thức của chúng tôi khá cảm tính và chưa được chuẩn
hoá. Trong khi tiếp tục công việc chuyên môn “làm thế nào” để thương hiệu trở
thành “cái gì” mang lại hiệu quả nhất cho doanh nghiệp, chúng tôi cũng bắt đầu
đào sâu tìm hiểu “ai” nắm giữ cốt lõi của thương hiệu và “tại sao” lại như vậy.
Chúng tôi bắt đầu tổng hợp và hệ thống hóa các yếu tố cấu thành thương hiệu.
Chúng tôi cũng tiến hành xác định liệu các yếu tố cấu thành có thể được đánh
giá thông qua những hiểu biết vốn có, hay phải cần những nghiên cứu liên quan
đến cảm nhận khách hàng. Thường thì một thành tố đòi hỏi cả hai phương thức
tiếp cận trên trên. Vấn đề là cách thức nào được đánh giá cao hơn.
Chúng tôi đã khám phá ra 11 yếu tố cốt lõi
bao gồm gần 200 thành tố nhỏ cấu thành. Tất cả để liên quan đến việc thể hiện
một hình ảnh thương hiệu hiệu quả, có tính cạnh tranh và mang lại lợi nhuận
trên thị trường. Mặc dù việc đánh giá dựa trên các yếu tố thương hiệu này có
thể giúp ích đáng kể cho công ty trong việc tìm hiểu điểm mạnh và điểm yếu của
mình cho các mục đích tiếp thị thường xuyên thì mục tiêu của chúng tôi vẫ là
xây dựng một phương pháp đủ chặt chẽ để kết hợp với các phương pháp kiểm toán
tiêu chuẩn quốc tế cho việc định giá thương hiệu trong mua bán & sáp nhập.
Hai phương pháp này được kết hợp với nhau như thế nào sẽ được xem xét qua việc
hợp tác của chúng tôi và Grant Thornton, công ty kiểm toán quốc tế hàng đầu tại
Việt Nam, đồng thời cũng là đơn vị nước ngoài duy nhất tại Việt Nam có chứng
chỉ định giá kinh doanh.
Trong phần trình bày trên, chúng ta đã xem xét tình hình mua bán và sáp
nhập trên khắp thế giới, điểm qua hoạt động định giá thương hiệu và mô tả
phương pháp đánh giá thương hiệu gồm 11 yếu tố mà chúng tôi đã xây dựng trong thời
gian qua. Đây là một phương
pháp đánh giá những điểm mà một thương hiệu cần để thể hiện một hình ảnh hiệu
quả, cạnh tranh và tao lợi nhuận trên thị trường. Bài viết này sẽ tập trung mô
tả những gì mà chúng tôi đã nghiên cứu và phát triển.
Trước khi thảo luận về
việc đánh giá thương hiệu, trước tiên chúng ta nên xem xét thế nào là một
thương hiệu. Lưu ý là bài viết này không nói về khía cạnh định giá tài chính
của một thương hiệu mà là đánh giá thương hiệu được sử dụng để quyết định giá
trị của một thương hiệu ở góc độ tài sản vô hình quan trọng cho hoạt động định
giá và các mục đích marketing đã mô tả trong bài.
Chúng ta có thể đặt hầu
hết các định nghĩa về thương hiệu theo một dải biến thiên. Tại một đầu, thương
hiệu được định nghĩa rất hẹp là một thực thể bao gồm các yếu tố ngôn ngữ (như
tên gọi và slogan) và hình ảnh (như logo và định dạng) cốt lõi cùng với cách
thức sử dụng chúng trong quảng cáo và các hoạt động truyền thông tiếp thị khác.
Ở đầi còn lại, thương hiệu được xem là danh tiếng của doanh nghiệp đối với đối
tượng mục tiêu từ nhân viên, nhà cung cấp, cổ đông, pháp chế viên cho tới nhà
phân phối, người bán lẻ, khách hàng và khách hàng tiềm năng.
Cả hai quan điểm không
chỉ liên quan tới thực tế (như thương hiệu có một bản sắc xác định để truyền
tải qua nhận diện hay không) mà còn liên quan tới cảm nhận (như thị trường có
cảm nhận đúng bản sắc đó không). Vấn đề thực tế có thể được đánh giá bởi các
chuyên gia giàu kinh nghiệm nhưng vấn đề cảm nhận phải là kết quả của nghiên
cứu thị trường, đặc biệt là nghiên cứu định tính.
Cảm xúc chính là làn
sóng chạy qua cả hai quan điểm này, bởi sự liên tưởng cảm xúc gắn kết khách
hàng với thương hiệu rất quan trọng. Chí phí điển hình để “giữ” một khách hàng
chỉ bằng một phần nhỏ chi phí thu hút khách hàng mới. Đối với một thương hiệu
sử dụng cảm xúc, nó phải bắt đầu với một điều gì đó từ trái tim. Và điều đó
trước hết đưa chúng ta tới nhóm 4 tiêu chí cơ bản cho bất cứ một thương hiệu
thành công nào.
Bản sắc Thương hiệu
Bản
sắc của thương hiệu xuất phát từ cam kết. Cam kết đầu tư cho năng lượng, nguồn
vốn và lãnh đạo là cần thiết để xác định và vốn hoá sức mạnh thương hiệu trong
tương quan với các đối thủ cạnh tranh. Tiếp đó, cam kết để định hình, thấu hiểu
và hành động dựa trên nhu cầu của phân khúc thị trường mà thương hiệu đã xác
định rõ ràng. Thương hiệu mà cân bằng hai động lực này, một hướng về nội tại và
một hướng về ngoại biên, sẽ sở hữu thứ cần thiết để tạo nên một chiến lược rõ
ràng giúp khác biệt hoá thương hiệu trên thị trường và định hình tính cách phù
hợp với thương hiệu và khách hàng.
Nhận biết Thương hiệu
Nếu Bản sắc Thương hiệu
làm rõ thương hiệu là gì thì Nhận biết Thương hiệu là câu chuyện các yếu tố
ngôn ngữ và hình ảnh được sử dụng như thế nào để thể hiện bản sắc đó. Các yếu
tố này bao gồm từ tên gọi giàu liên tưởng cho tới những câu chuyện thương hiệu
gắn kết, từ mẫu logo giàu ẩn dụ khi nhìn bằng mắt tới âm thanh giàu cảm xúc khi
nghe qua tai. Chúng phải hấp dẫn một cách độc đáo từ cái nhìn đầu tiên và duy
trì nhất quán để được ghi nhớ theo thời gian.
Liên tưởng Thương hiệu
Với một bản sắc rõ ràng
và các yếu tố phù hợp để thể hiện, một thương hiệu liên hệ hai yếu tố đó với
thị trường như thế nào? Thông qua hoạt động truyền thông thương hiệu, thương
hiệu thể hiện bản sắc của mình trên thị trường mỗi ngày ra sao? Mức độ phù hợp
của các phương tiện truyền thông sử dụng để truyền tải thông điệp tới khách hàng
tiềm năng như thế nào và từ góc nhìn của họ, nó có chạm tới cuộc sống của họ
không?
Trung thành Thương hiệu
Nếu một thương hiệu đã
phát triển đủ để thu hút khách hàng thì mức độ gắn kết của thương hiệu với
khách hàng chính là chỉ số chính cho thành công tương lai. Liệu khách hàng có
dễ dàng chuyển sang dùng các thương hiệu cạnh tranh dưới tác động của giá, sự
mờ nhạt và các yếu tố khác, hay có điều gì đó về thương hiệu khiến người sử
dụng nghĩ rằng “đây là thương hiệu của tôi”.
Bốn tiêu chí đầu tiên
của thương hiệu này – Bản sắc, Nhận biết, Liên tưởng và Trung thành – hình
thành nên một nhóm có thể gọi tên là nhóm yếu tố lấy Khách hàng làm trọng tâm
bởi chúng đều khuyến khích khách hàng tạo nên một mối quan hệ gần gũi và bền
chặt. Nhưng nhóm này không tồn tại riêng rẽ mà trong một tổng thể lớn hơn mà
chúng ta có thể gọi là nhóm lấy Thị trường làm trọng tâm – bao gồm bốn tiêu chí
thương hiệu khác.
Thị trường Thương hiệu
Thương hiệu nằm trong
một thị trường mới nổi, tăng trưởng mạnh và tiềm tàng nhiều nguy cơ hay một thị
trường đã phát triển, ít tăng trưởng và ít rủi ro? Liệu còn cơ hội mở rộng về
mặt địa lý và thị phần trong thị trường đó không? Phan khúc thị trường có ổn
định độc lập hay dễ bị tác động bởi các xu thế? Các yếu tố thị trường này có
thể tiết lộ nhiều về tiềm năng tăng trưởng tương lai của thương hiệu.
Thị phần Tiêu thụ Thương hiệu
Thương hiệu tương tác
với phân khúc thị trường của nó như thế nào? Thương hiệu có khả năng tái định
hình thị trường như những gì Apple đã làm với thị trường điện thoại không? Mật
độ của mạng lưới phân phối như thế nào? Thị phần và giá trị thị trường của
thương hiệu như thế nào so với các đối thủ cạnh tranh? Và chúng có tương quan
với chi phí marketing mà thương hiệu bỏ ra không?
Năng lượng Thương hiệu
Thương hiệu mà tiếp thu
năng lượng từ thị trường sẽ có nội lực để tăng trưởng. Thương hiệu có liên tục
tái đầu tư bản thân tại phân khúc của mình thông qua sản phẩm, dịch vụ hoặc
truyền thông trong khi vẫn giữ đúng tính cách thương hiệu đã định hình trên thị
trường hay không? Thương hiệu kết nối, trở thành chất xúc tác cho thay đổi và
hưởng lợi từ các xu thế như thế nào? Thương hiệu có đang tăng doanh số và thị
phần trên thị trường hay không?
Chất lượng Thương hiệu
Khi đánh giá một thương
hiệu, chất lượng không phải là chất lượng sản phẩm hay dịch vụ. Thực chất,
thành công có thể đạt được bằng các sản phẩm marketing ở bất kỳ mức độ chất
lượng nào. Đó là khả năng thương hiệu đặt mức giá cao hơn so với các đối thủ ở tầm
chất lượng tương đương. Một khía cạnh khác của chất lượng thương hiệu là mức độ
phù hợp của chất lượng thương hiệu định vị so với chất lượng thực bởi trung
thực trong truyền thông vẫn là yếu tố thiết yếu cho một thương hiệu bền lâu.
Sau khi cân nhắc bốn tiêu
chí thuộc nhóm lấy Thị trường làm trọng tâm của một thương hiệu, chúng ta nên
chuyển từ chiếc kính viễn vọng sang kính hiển vi và xem xét kỹ ba khía cạnh
thuộc nhóm lấy Cấu trúc làm trọng tâm.
Quan hệ Thương hiệu
Giống như danh tiếng của
một thành viên trong gia đình có thể ảnh hưởng tới tên tuổi của các thành viên
khác, thương hiệu cũng vậy. Điểm nổi bật nhất là mối quan hệ giữa thương hiệu
mẹ và các thương hiệu nhánh, và ngược lại. Có quá nhiều yếu tố để cân nhắc
trong những mối quan hệ như thế nhưng về căn bản sự tương đồng trong các chiến
lược khác biệt hoá, phân khúc thị trường, cấp độ chất lượng phải được xem xét
và so sánh với mức độ gần gũi/tương đồng giữa các thương hiệu trong truyền
thông.
Nguồn lực Thương hiệu
Một khía cạnh khác của
Cấu trúc Thương hiệu là trách nhiệmxây dựng hình ảnh thương hiệu được phân bổ
trong cơ cấu lãnh đạo doanh nghiệp rõ ràng như thế nào và nhận diện thương hiệu
được chuẩn hoá như thế nào cho mục đích sử dụng trong và ngoài doanh nghiệp
thông qua các tài liệu chỉ dẫn. Và thương hiệu luôn cần sự hỗ trợ tiếp thị rất
lớn từ bên ngoài để sử dụng các kênh truyền thông hiệu quả – những kinh nghiệm,
hiểu biết thương hiệu hỗ trợ như thế nào?
Bảo hộ Thương hiệu
Cuối cùng liên quan tới
cách thương hiệu sử dụng các tài sản trí tuệ như tên thương hiệu, tên sản phẩm,
slogan, logo và các yếu tố đồ hoạ khác vố đã trở thành một phần trong ấn tượng
thương hiệu chung. Thương hiệu đã bảo hộ các thành tố này tại địa phương – nơi
thương hiệu đang hoạt động và những nơi thương hiệu có tiềm năng mở rộng kinh
doanh chưa?
Thương hiệu có thể dựa
trên một nguyên tắc đơn giản, như “Just do it” (Hãy cứ làm đi), nhưng là khi
đánh giá đóng góp của thương hiệu với thành công truyền thông của doanh nghiệp,
và thêm nữa, khi đánh giá thành công về mặt tài chính, có rất nhiều điều để cân
nhắc. Những doanh nghiệp nỗ lực làm điều này có được kết quả kinh doanh khả
quan, và lợi nhuận tăng cao khi đánh giá tài chính.
Nguồn: BrandVietnam/BrandDance
Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014
Để tôi có thêm nghị lực mỗi ngày!
Google Account Video Purchases
Ho Chi Minh City, Ho Chi Minh City
Thứ Năm, 5 tháng 6, 2014
Ý NGHĨA CỦA NHỮNG LOGO NỔI TIẾNG
Logo của McDonald's tượng
trưng cho ngực phụ
nữ, Google lại mang thông điệp
"không thích chơi đúng luật"....đằng
sau mỗi logo là cả một
ẩn ý lớn của
nhà sản xuất.
Amazon: Suy nghĩ đầu tiên của chúng
ta khi nhìn vào logo của Amazon là hình mũi tên trông giống như một khuôn mặt
với cái miệng cười rộng. Có nghĩa là Amazon sẽ đem lại sự hài lòng cho mọi
khách hàng khi sử dụng dịch vụ và hàng hóa của họ. Nếu chú ý hơn ta sẽ thấy mũi
tên bắt đầu từ chữ “A” sau đó kết thúc ở chữ “Z”, với thông điệp Amazon phục vụ
một loạt mặt hàng để bán từ A đến Z (phục vụ đến tận khâu cuối cùng).
McDonald's: Nhiều người hiểu là chữ “M”
đại diện cho chữ cái đầu của tên công ty. Phía McDonald’s lại muốn mang lại cho
khách hàng của mình một thông điệp khác. Trước đó, vào những năm 1960, trong nỗ
lực muốn xây dựng lại hình ảnh, công ty đã mời Donald Cheskin – chuyên gia tư
vấn thiết kế giúp họ thay đổi logo. Gần như ngay lập tức ông đã thuyết phục họ
hãy giữ lại nguyên bản logo của mình. Bởi theo ông, chữ “M” với đường tròn phía
trên giúp cho mọi người liên tưởng đến bộ ngực của người phụ nữ và gây cho họ
cảm giác đói. Điều này có vẻ khó tin với nhiều người, nhưng chắc chắn sau khi
biết điều này, bạn sẽ nhìn chữ “M” đó theo cách hoàn toàn khác.
Apple: Trong chuyện Adam và Eva đã
cùng ăn trái cấm từ cây tri thức và vết cắn trên quả táo đó nằm ở góc bên phải.
Bắt nguồn từ truyền thuyết đó mà logo của Apple có hình quả táo khuyết như vậy.
IBM: Biểu
tượng của IBM là một trong những logo dễ nhớ nhất trên thế giới. Nhưng đã bao
giờ bạn thắc mắc về những dấu ngạch ngang qua từng chữ cái? Những dấu gạch
ngang tưởng chừng như vô nghĩa đó lại có dụng ý rằng, những dấu “Bằng” (=) với
thông điệp là BÌNH ĐẲNG.
Adidas: Cái tên “Adidas” là sự kết
hợp giữa chữ cái đầu tiên và chữ cái cuối cùng của người thành lập công ty –
Adofl Dassler. Ngay từ những năm tháng đầu tiên của công ty, họ đã rất chú
trọng vào vấn đề marketing và biến chữ Adidas cùng 3 đường kẻ sọc đã gần như
trở thành biểu tượng đặc trưng của mình. Mặc dù đã thay đổi logo khá nhiều lần,
nhưng mỗi khi khách hàng nhìn thấy 3 đường kẻ sọc, họ đều liên tưởng ngay đến
Adidas. Ba đường kẻ sọc nguyên bản của Adidas tạo nên hình tam giác trông như
một ngọn núi, tượng trưng cho những thách thức và mục tiêu mà tất cả những vận
động viên phải đối mặt và vượt qua.
FedEx: Logo FedEx là một trong những
biểu tượng sáng tạo nhất. Trước tiên là về màu sắc đơn giản nhưng rất bắt mắt
với hai màu xanh và cam. Nếu nhìn kỹ chúng ta sẽ nhìn thấy hình mũi tên, màu
trắng được tạo ra các khoảng không giữa chữ “E” và chữ “X”, đại diện cho tầm
nhìn của công ty và triển vọng của họ là tiến đến tương lai.
Pepsi: Logo của Pepsi chỉ là một
vòng tròn đơn giản, nửa trên là màu đỏ, nửa dưới là màu xanh và một dòng màu
trắng lượn sóng chạy qua trung tâm. Những màu sắc này đại diện cho lá cờ của
nước Mỹ, nhưng ý nghĩa của nó thì lại hoàn toàn khác. Pepsi đã tiêu tốn khá
nhiều tiền để thiết kế mẫu logo hiện tại. Khi phải thuyết trình về mẫu logo mới
này, nhóm thiết kế đã sử dụng đến 27 trang tài liệu giải thích về ý nghĩa của
nó. Theo đó, nó đại diện cho từ trường Trái Đất, phong thủy, thuyết tương
đối... và nhiều thứ khác nữa.
Google: Trong quá trình tạo ra logo
của Google, các nhà thiết kế muốn thể hiện được sự thích thú, sáng tạo mà không
bị gò bó bởi những biểu tượng quá cồng kềnh, rối rắm. Ban đầu họ chỉ làm lệch
đi một số chữ cái, nhưng ý tưởng này đã bị hủy bỏ mà thay vào đó họ tập trung
vào chính màu sắc của chúng. Logo hiện tại của họ có màu đỏ, xanh lá và xanh
nước biển đều thuộc gam màu cơ bản, nhưng chữ “O” lại thuộc màu vàng thứ cấp.
Điều này mang một thông điệp rằng: Google không phải là một công ty thích “chơi
đúng luật”.
NBC: Logo của NBC tượng trưng cho
một con công, nhưng bí mật nằm sau đó thì không phải ai cũng biết. Trong quá
trình thiết kế logo, NBC thuộc sở hữu của công ty điện tử Radio Corporation of
America (RCA ). Lúc đó, TV màu chỉ mới bắt đầu xuất hiện và RCA đang rất muốn
quảng bá dòng sản phẩm mới này đến với công chúng. Và với việc tạo ra một logo
màu sắc, nó có thể giúp người xem cảm nhận được sự sống động, một trải nghiệm
mới mà TV đen trắng không thể nào đem lại được. Vì vậy, một logo dựa trên màu
sắc của con công đã được ra đời.
Volkswagen: Volkswagen là một nhà sản
xuất xe ô tô có trụ sở ở Đức. Từ rất lâu trước khi Hitler lên nắm quyền ở Đức,
ông ta đã cố gắng xây dựng những kế hoạch nhằm sản xuất đại trà một loại xe hơi
vừa túi tiền. Volkswagen sở hữu 1 chiếc logo đơn giản và dễ nhận biết nhất trên
thế giới, đây là logo chỉ thay đổi chút ít sau hàng chục năm. Logo của
Volkswagen, “V” chồng lên trên một chữ “W” trên một nền màu xanh dương, được
bao quanh bởi một vòng tròn. “V” là Volks - dân chúng, và “W” là Wagen có nghĩa
là chiếc xe. Qua đó, logo sẽ nói lên cho ta ý nghĩa của biểu tượng nghĩa là
“chiếc xe của dân chúng”.
BMW: Biểu tượng BMW có hình tròn
là tượng trưng của một cánh quạt máy bay quay tròn của Bavarian Luftwaffe. Lúc
đó, các máy bay được sơn bằng màu của các vùng và các màu của cờ Bavarian đều
là màu trắng và xanh da trời. Người ta nói rằng, phi công đã nhìn thấy cánh
quạt máy bay như là nhiều mảng đan xen giữa màu trắng và màu xanh, từ đó trở
thành biểu tượng. Huy hiệu tròn trên máy bay cũng là Logo gốc của Karl Rapp.
Mercedes-Benz: Mác xe MERCEDES được
thành lập từ sự hợp nhất giữa DAIMLER và BENZ vào năm 1926. Đất, không khí và
nước tượng trưng cho ba nhánh của ngôi sao. Ba yếu tố này đã được sử dụng để
tạo nên logo của MERCEDES (một ngôi sao 3 cánh trong một vòng tròn) và nó không
thay đổi cho đến tận ngày nay.
Nguồn: Zing News
Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014
Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014
Google soán ngôi Apple trở thành thương hiệu đắt giá nhấ thế giới!
http://m.docbao.vn/tin-tuc/22-05-2014/Top-10-thuong-hieu-dat-gia-nhat-the-gioi-nam-2014/30/238107/
Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014
Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014
Chiếc áo chung không vừa hết cho mọi người
http://m.motthegioi.vn/the-gioi-hoc/dai-hoc-tu-thuc-va-chiec-ao-chung-khong-the-vua-het-moi-nguoi-58816.html
Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2014
Quà của bạn
Quà của bạn Trần Cường - TGĐ Quốc Anh, trị bá bịnh, khỏe đủ thứ. Nhưng mà uống hết hộp rồi nghỉ vì hết nguyên liệu, mà nguyên liệu nằm bên Tây Tạng! Hic
Thứ Hai, 12 tháng 5, 2014
SHOPPER MARKETING
SHOPPER
MARKETING – CẠNH TRANH TẠI ĐIỂM BÁN HÀNG
Chiến
lược shopper marketing (tiếp thị đến người mua hàng) nếu thực hiện đúng, sẽ
giảm bớt gánh nặng cho quảng cáo, bởi có tác động trực tiếp đến thời điểm ra
quyết định của khách hàng.
Không dừng ở điểm bán
Theo các chuyên gia,
shopper marketing dường như rất phù hợp trong thời điểm kinh tế khó khăn và rất
được các nhà bán lẻ ưa chuộng. Shopper không nhất thiết là người tiêu dùng. Họ
gồm nhiều đối tượng khác nhau, mua sắm tại nhiều điểm khác nhau. Họ tìm hiểu và
quyết định mua hàng tại nhà nhưng lại cân nhắc tại điểm bán rồi cuối cùng mới
quyết định mua hàng hay không.
Một người mua hàng
tuỳ mục đích mua sắm nên cũng có những hành vi khác nhau. Có những khách hàng
mỗi tuần đi siêu thị một vài lần nên sẽ mua dự trữ. Nhưng cũng có những người
đi mua cùng gia đình và họ coi việc đi siêu thị cũng như thư giãn, giải trí.
Bên cạnh đó, còn có
nhóm khách hàng mua nhanh tại cửa hàng. Những hoạt động marketing dựa vào sự
thấu hiểu về hành vi của người mua hàng để xây dựng thương hiệu, kết nối với
shopper (người mua hàng) và làm cho người mua quyết định mua hàng.
Bà Phạm Nguyễn Yến
Nhi, chuyên gia của Trung tâm Tư vấn và Đào tạo bán hàng LSA, cho biết,
shoppers thường có 6 xu hướng:
Thứ nhất, mua hàng
dựa vào giá trị sản phẩm, bao gồm chất lượng, giá cả và sự yêu thích thương
hiệu.
Thứ hai, chú ý đến
giá cả khi quyết định mua hàng (giá rẻ, chọn mua sản phẩm có khuyến mãi).
Thứ ba, cần trợ giúp
để chọn sản phẩm phù hợp nhất, nhanh chóng nhất để tiết kiệm thời gian.
Thứ tư, cần giải
pháp nhanh chóng, tiện lợi và cả giải pháp sản phẩm. Thứ năm, lượn lờ trước khi
mua. Và cuối cùng là nhóm khách hàng hướng đến những trải nghiệm mua sắm. Với
nhóm khách hàng này, họ quan tâm đến không gian, dịch vụ, sản phẩm...
Hiện nay, shopper
marketing không những đánh mạnh vào các hoạt động tại điểm bán hàng mà còn tập
trung vào cách bài trí sản phẩm trên kệ sao cho vị trí của nó thích hợp và tạo
được sự thích thú nơi người mua.
Bởi, các nghiên cứu
về marketing gần đây cho thấy, 70% quyết định mua hàng được đưa ra trong cửa
hàng, 68% việc mua sắm trong cửa hàng dựa trên sự thôi thúc, 5% là do sự trung
thành với thương hiệu. Vì vậy, cách trưng bày hàng hóa, hình ảnh, ánh sáng,
video, vật dụng trang trí... giúp khách hàng nhận diện thương hiệu một cách
hiệu quả nhất.
Vùng
miền và xu hướng mua sắm mới
30% người tiêu dùng
không định hình nhãn hiệu khi mua hàng; 20% số người định hình nhãn hàng nhưng
sẵn sàng đổi sang hàng khác. Vì vậy, dù quảng cáo cỡ nào cũng chỉ có thể giành
được 50% thị phần.
Trước thực tế này,
doanh nghiệp phải có chiến lược marketing shopper như thế nào? Theo các chuyên
gia bán hàng, doanh nghiệp phải xác định ai là người đi mua mà đưa ra chiến
lược phù hợp. Ở từng kênh bán lẻ (truyền thống và hiện đại) phải có chiến lược
khác nhau.
Thậm chí, những vùng
miền hay ngành hàng khác nhau cũng xây dựng chiến lược marketing khác nhau. Bà
Nhi cho biết, ở miền Bắc, tâm lý thích sành điệu nên hàng có giá cao luôn được
ưa chuộng. Người mua hàng ở miền Bắc có tính trung thành cao, khi đã chọn
thương hiệu hiệu nào thì "đồng hành" cùng tương hiệu đó.
Ngược
lại, người miền Nam thích thay đổi và quan tâm đến yếu tố giá rẻ nên doanh
nghiệp dễ thâm nhập thị trường nếu có chiến lược quảng bá, tiếp thị, bán hàng
tốt. Ở kênh bán hàng hiện đại cũng thế.
Khách hàng của
Co.opmart rất trung thành với thương hiệu này nên họ thường mua hàng ở những kệ
chính hơn là tìm hàng ở các "đảo khuyến mãi". Trong khi đó, chiến
lược của Big C là "hàng giá rẻ” nên khách hàng của nhà bán lẻ này thường
săn hàng khuyến mãi hơn là tìm hàng ở các kệ chính.
Cũng theo bà Nhi,
hiện nay, có đến 70% người mua thích mua ở kênh truyền thống như chợ, tiệm tạp
hóa. Siêu thị được đại đa số khách hàng xem là nơi thư giãn. Cũng nên chú ý sản
xuất những sản phẩm phù hợp với việc vận chuyển bằng xe gắn máy.
Các doanh nghiệp nhỏ
và vừa của Việt Nam có thể giành chiến thắng tại điểm mua hàng bằng cách phát
huy tối đa cơ hội để người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm. Trong đó, việc sản xuất
sản phẩm làm sao để có thể vừa thoả mãn chiến lược cho từng kênh (chợ, cửa
hàng, siêu thị...), vừa không quá nhiều để tiện cho việc quản lý.
Có thể tạo vài thiết
kế, đóng gói khác biệt cho từng kênh, từng khách hàng riêng biệt. Chẳng hạn như
các loại bao bì lớn phù hợp với Metro, trong khi đó, bao bì nhỏ phù hợp với các
siêu thị Big C, Co.opmart, Maximark...
Bên cạnh đó, nhà sản
xuất cũng nên chú ý đến yếu tố dùng thử, yếu tố nghe nhìn, khuyến mãi... đồng
thời với việc chọn vị trí bán hàng, trưng bày phù hợp với việc bán hàng và giảm
giá.
Sơ đồ trưng bày cũng
phải hợp lý, ưu tiên cho sản phẩm bán chạy hoặc sản phẩm chiến lược và sản phẩm
mang lại lợi nhuận nhiều. Về quảng cáo, theo các chuyên gia, nên bám sát kế
hoạch khuyến mãi của từng khách hàng. Có chiến lược khuyến mãi cho từng nhóm
khác nhau, phù hợp với nhu cầu của shopper và phù hợp với định vị sản phẩm bán.
Theo ông Phạm
Trọng Chinh, Trưởng Phòng Đào tạo phát triển khách hàng Công ty Unilever Việt
Nam, để bán được hàng, yếu tố quan trọng nhất vẫn là đội ngũ bán hàng. Cho dù
doanh nghiệp xây dựng chiến lược marketing tốt cỡ nào nhưng đội ngũ bán hàng
không tốt cũng sẽ khó thành công. Làm sao để nhân viên thấy được ưu thế tại
điểm bán hàng.
Theo DNSG
Kích bán hàng bằng shopper marketing?
Trong bối cảnh kinh
tế khó khăn như hiện nay, shopper marketing (tiếp thị người mua hàng) đang là
giải pháp giúp các DN tăng doanh số bán hàng. Để tìm hiểu kỹ hơn về phương thức
tiếp thị này, ĐTTC có cuộc trao đổi với ông Triệu Tôn Phong, sáng lập viên kiêm
Chủ tịch MSV Group, một công ty có gần 20 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh
vực marketing tại Việt Nam.
PHÓNG VIÊN: - Thưa
ông, khái niệm shopper marketing nên được hiểu như thế nào?
Ông TRIỆU TÔN PHONG: - Shopper
marketing là hoạt động truyền thông nhắm đến người đi mua hàng tại điểm bán và
ngoài điểm bán. Đây là sự thay đổi về quan niệm chứ không phải thay đổi về kỹ
thuật truyền thông.
Có một sự ngộ nhận
lớn khi quan niệm rằng người tiêu dùng và người mua sắm là một. Để người tiêu
dùng trở thành người mua, họ phải trải qua vai trò người đi mua sắm và đôi khi
người mua hàng chứ chưa phải người sử dụng. Sẽ là sai lầm nếu nhà quản trị tiếp
thị chỉ cố gắng tìm hiểu mong đợi tiềm ẩn của người tiêu dùng mà bỏ sót mong
đợi của người đi mua hàng.
Vì sao shopper
marketing còn khá lạ lẫm với nhiều DN Việt Nam? Vào năm 2007, khi khủng hoảng
kinh tế bắt đầu nổ ra, DN không bán được hàng. Khi ấy, các nhà chiến lược
marketing trên thế giới, đặc biệt Hoa Kỳ, mới bắt đầu mổ xẻ và nhìn lại vấn đề.
Người ta nhận ra từ trước đến nay có quan niệm sai lầm về tiếp thị khi chỉ tập
trung vào người tiêu dùng, trong khi nhân tố quyết định mua hàng lại đến từ
người đi mua sắm.
Từ đó shopper
marketing bắt đầu được chào đón nhiệt thành. Như vậy, hình thức tiếp thị này
mới trải qua một khoảng thời gian chưa lâu. Trong khi đó, Việt Nam thường đi
sau các nước trên thế giới nên khái niệm này vẫn còn mới mẻ với nhiều DN.
- Vậy theo ông DN
Việt Nam đã “chạm tay” đến shopper marketing?
- Tiếp thị là để
giải quyết mục tiêu bán hàng, nên không quan trọng là tiếp thị truyền thống,
tiếp thị số hay tiếp thị đến người đi mua hàng… Phân tích sâu vào vấn đề này,
chúng ta thấy lâu nay các DN chi nhiều tiền cho các đơn vị bán lẻ, mong họ ưu
ái dành cho một không gian rộng hơn trên quầy kệ.
Chính vì thế, để tự
cứu mình, các DN tự xây dựng đội ngũ sứ giả thương hiệu, tư vấn tiêu dùng,
promotion girls (PG)… để những người này đứng ở siêu thị, tiệm sữa, quán bia…
thuyết phục người đi mua hàng. Điều này phần nào cho thấy DN đã bắt đầu “chạm
tay" vào shopper marketing.
- Theo
ông, DN trong lĩnh vực nào phù hợp với hình thức tiếp thị này? Vấn đề chi phí
cho shopper marketing ra sao?
- Tất cả DN đều có
thể áp dụng shopper marketing, nhưng có một điều là shopper marketing không thể
tách rời, mà nó phải là sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà sản xuất (hay thương hiệu)
và nhà bán lẻ để phục vụ tốt nhất cho người mua hàng.
Nói đến marketing là
nói đến sự sáng tạo không ngừng, đặc biệt shopper marketing sự sáng tạo lại
càng lớn. Hiểu được mong đợi của người đi mua hàng là hết sức quan trọng. Đây
cũng chính là chìa khóa thành công trong bán hàng. Còn vấn đề chi phí, có thể
thấy chi phí dành cho shopper marketing không lớn.
Như tôi đã nói, mô
hình shopper marketing mới xuất hiện gần đây, khoảng chừng năm 2007 - thời kỳ
hậu internet, do vậy khi nói đến shopper marketing không thể không nói đến
digital marketing (tiếp thị số) và nếu khéo kết hợp, chi phí sẽ không cao vì ai
cũng hiểu tiếp thị số là hình thức tiếp thị có chi phí thấp nhất, thậm chí có
những trường hợp chi phí bằng 0.
- Như ông nói, kinh
tế khó khăn giúp shopper marketing được đón nhận nồng nhiệt. Vậy giả sử kinh tế
vẫn phát triển tốt thì khái niệm này có xuất hiện không?
- Shopper marketing
xuất hiện trong thời đại của tiếp thị trực tuyến, con người đang sống trong môi
trường của công nghệ nên dù kinh tế tốt hơn shopper marketing vẫn cứ xuất hiện.
Đây là sự điều chỉnh trong nhận thức của các nhà tiếp thị.
Tất cả các vấn đề cơ
bản của tiếp thị đều không sai, khách hàng mục tiêu, phân khúc tiêu dùng, định
vị… không sai, nhưng những hoạt động truyền thông hiện nay gần như thay đổi khá
nhiều. Trên thế giới, ngân sách dành cho shopper marketing mỗi năm tăng khoảng
21%; có tới 73% nhãn hàng nhận thấy thực hiện shopper marketing là khoản đầu tư
hiệu quả và 86% nhà bán lẻ đồng ý điều này; 55% công ty cho biết sẽ tăng ngân
sách shopper marketing trong 3 năm tới…
Có thể nói tiếp thị
người đi mua hàng là xu hướng mới của tiếp thị. Hãy thay đổi quan điểm tiếp thị
ngay từ bây giờ để mỗi đồng chi phí DN bỏ ra đều phát huy hiệu quả tốt nhất.
- Xin cảm ơn ông.
Theo Đầu tư Tài chính – SGGP
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)